Những trường hợp liệt nhẹ, vàsức cơ của bệnh nhân còn tương đối tốt nên bệnh nhân có thể duy trì tư thế của chi tương đối lâu. Trong trường hợp đó ta có thể nhanh chóng xác định liệt nửa người bằng cách yêu cầu bệnh nhân thực hiện các động tác vận động chủ động chống lại sức cản do thầy thuốc gây ra.
1. Khởi phát và tiến triển:
+ Đột ngột: thường là do đột qụy não. Cũng có khi liệt sẽ được khởi đầu bởi một sự kiện rất đơn giản (sau khi tắm, nhận được một thông tin buồn phiền…). Mức độ liệt khi bắt đầu sẽ rất khác nhau, có bệnh nhân liệt hoàn toàn ngay từ đầu nhưng cũng có bệnh nhân chỉ bị liệt nhẹ. Mức độ liệt ban đầu cũng có thể chỉ dừng lại như vậy sau giảm dần (thường trong chảy máu não, tắc mạch) nhưng cũng có khi tiến triển tuần tiến nặng dần lên hoặc nặng lên theo từng nấc trong những giờ, những ngày sau (thường do huyết khối động mạch não).
+ Liệt xuất hiện từ từ và sẽ tăng dần một cách chậm chạp thường gặp trong các trường hợp khối phát triển, liệt xuất hiện từ từ, tiến triển kiểu tăng dần theo kiểu bậc thang thường do các bệnh thoái hóa (xơ cột bên teo cơ…).
2. Các thể liệt
+ Liệt mềm một nửa người (tổn thương tháp hủy hoại).
+ Liệt cứng một nửa người (tổn thương tháp kích thích) thường kèm theo các triệu chứng co cứng, tăng phản xạ gân xương, có phản xạ bệnh lý bó tháp, rung giật bàn chân, rung giật bánh chè.
3. Các triệu chứng kèm theo:
Có thể quan sát thấy các dấu hiệu sau:
+ Dấu hiệu quay đầu – mắt phối hợp gọi là (déviation conjugee).
+ Phồng má bên liệt lên khi thở ra do liệt dây VII trung ương (Dấu hiệu hút điếu).
+ Những trường hợp nặng nề chỉ có thể còn thấy các kiểu rối loạn nhịp thở.
+ Rối loạn phản xạ gân xương và cả phản xạ da, có thể có phản xạ bệnh lý bó tháp.
+ Các động tác đồng vận (syncinésie): khi chi bên lành vận động tùy ý thì bên liệt lại có động tác vận động không tùy ý theo.
+ Rối loạn cảm giác, giác quan.
+ Rối loạn tâm thần.
+ Rối loạn thực vật.
4. Khám bệnh nhân liệt nửa người.
.1. Quan sát:
+ Đối với bệnh nhân còn tỉnh táo quan sát các vận động chủ động của bệnh nhân,
+ Đối với bệnh nhân bị hôn mê: ta quan sát thấy bàn chân bên liệt đổ sát mặt giường hơn, nửa người bên liệt có rất ít các cử động tự phát, ít vận động trong khi vật vã kích thích, quan sát dấu hiệu hút điếu…
2.2. Cách khám bệnh nhân phát hiện liệt nửa người:
+ Khám bệnh nhân tỉnh: hãy thực hiện tuần tự các bước sau:
– Yêu cầu bệnh nhân thực hiện các vận động chủ động các chi là co, duỗi tay, chân hay nâng tay, chân khỏi mặt giường.
– Kiểm tra bằng các nghiệm pháp khám vận động: Barré (chân và tay), Mingazzini (chân), Raimiste (tay).
– Những trường hợp liệt nhẹ, và sức cơ của bệnh nhân còn tương đối tốt nên bệnh nhân có thể duy trì tư thế của chi tương đối lâu. Trong trường hợp đó ta có thể nhanh chóng xác định liệt nửa người bằng cách yêu cầu bệnh nhân thực hiện các động tác vận động chủ động chống lại sức cản do thầy thuốc gây ra.
+ Khám triệu chứng liệt nửa người ở một bệnh nhân hôn mê: kích thích đau ở từng chi của bệnh nhân để xem mức độ co duỗi các khúc chi nhanh, mạnh, dứt khoát hay chậm chạp, yếu đuối để đánh giá xem sức cơ bên nào yếu hơn, và nghiệm pháp thả rơi (nâng chi của bệnh nhân lên sau đó thả cho rơi tự do, bên liệt rơi xuống giường nặng nề như một khúc gỗ), bạn dựng bàn chân hoặc chân bệnh nhân (gấp ở khớp gối) cho đứng trên giường, khi đó bàn chân hoặc chân bên liệt không giữ được tư thế nên sẽ đổ xuống sát mặt giường.
Để lại một phản hồi