CHẨN ĐOÁN NGÔI THẾ KIỂU THẾ TRONG Y HỌC THỰC HÀNH

Vào thời điểm bắt đầu cuộc chuyển dạ, vị trí của thai nhi ở trong tử cung là yếu tố quan trọng trong tiên lượng cuộc đẻ. Gần đến ngày mà mẹ sinh hoặc trong khi chuyển dạ, thông thường thai nhi sẽ nằm dọc chiều tử cung (chiều của thai), đầu chúc xuống dưới (ngôi thai), chỏm cúi gập vào cổ (mức độ cúi của thai), phần chẩm nằm về phía trước trong tiểu khung (kiểu thế). Bốn thành tố trên: ngôi, chiều, độ cúi, thế và kiểu thế được sử dụng để mô tả tư thế của thai nhi so với người mẹ. Có khoảng 5%  trường hợp mà vị trí thai không theo hình thái thông thường và được gọi là ngôi thai bất thường. Ngôi thai bất thường khi đi kèm theo việc tăng nguy cơ cho cả mẹ và thai nhi.

 

1.ĐỊNH NGHĨA

1.1. Ngôi

1.1.1 Ngôi: được định nghĩa là phần thai nhi trình diện trước eo trên trong khi có thai hoặc khi chuyển dạ.

Có hai loại ngôi cơ bản:

– Ngôi dọc:   trục dọc của thai cùng trục với trục tử cung của  mẹ. hai loại ngôi dọc:

+ Ngôi đầu: đầu  trình diện trước eo trên . Ngôi đầu lại được chia ra thành các loại: ngôi chỏm (chẩm), ngôi trán và ngôi mặt tuỳ thuộc vào mức độ cúi của đầu thai.

+ Ngôi mông (ngôi ngược): mông của thai nhi trình diện trước eo trên. Ngôi mông sẽ được chia thành: ngôi mông hoàn toàn  còn gọi là ngôi mông đủ , ngôi mông không hoàn toàn, gọi là ngôi mông thiếu (kiểu mông, hay kiểu đầu gối và kiểu chân).

– Ngôi ngang: khi trục dọc của thai vuông góc hoặc bắt chéo với trục tử cung của  mẹ.

Ngoài ra có thể gặp ngôi phức hợp.

1.1.2 Mốc của ngôi: ta có thể gặp

+ Ngôi chỏm: mốc  xương chẩm.

+ Ngôi mặt: mốc  mõm cằm.

+ Ngôi trán: mốc gốc mũi.

+ Ngôi ngang: mốc  mõm vai.

+ Ngôi mông: mốc  đỉnh của xương cùng.

 

1.2. Độ cúi

Độ cúi nếu bình thường của ngôi chỏm trong cuộc chuyển dạ sẽ là đầu cúi hoàn toàn, cằm của thai sẽ gập sát vào phần trên ngực để cho phần chẩm được trình diện trước. Nếu đầu không cúi hết thì sẽ đưa đến tình trạng ngôi trán  cổ ngửa ra sẽ đưa đến tình trạng ngôi mặt.

1.3. Thế

         Thế là sự tương quan giữa điểm mốc của ngôi thai với bên phải hoặc bên trái của người mẹ hay để nói rõ hơn là bên phải hoặc bên trái của khung chậu  mẹ. Vậy mỗi ngôi sẽ có hai thế: thế phải và thế trái.

1.4. Kiểu thế

Kiểu thế chính là mối tương quan giữa điểm mốc của ngôi  với vị trí trước-sau của khung chậu  mẹ. Như vậy ở  phần trình diện của thai sẽ có thể nằm ở phía Trước/Sau, bên Trái/Phải và tạo ra 6 kiểu thế lọt cho một ngôi .

Khi ngôi đã xuống eo giữa và eo dưới thì tuỳ cơ chế đẻ và điểm mốc của ngôi so với khung chậu của người mẹ mà ta có 2 kiểu thế sổ  :

– Ngôi chỏm : hai kiểu thế sổ đó là chẩm trước và chẩm sau tuỳ theo chẩm phia xương mu hay phía xương cùng.

– Ngôi mặt có một kiểu thế sổ  là cằm trước và một kiểu thế không sổ được  là cằm sau..

– Ngôi mông có hai kiểu thế sổ  là cùng ngang trái và cùng ngang phải.

– Ngôi trán và ngôi ngang không có kiểu thế sổ do không lọt xuống eo dưới được.

 

 

2.CHẨN ĐOÁN NGÔI, THẾ, KIỂU THẾ

Có rất nhiều phương pháp thăm khám để chẩn đoán ngôi, thế và kiểu thế như: Sờ nắn, kết hợp nghe tim thai và khám âm đạo. Trong những trường hợp khó ta có thể áp dụng thêm các phương tiện cận lâm sàng như: X quang hoặc siêu âm.

2.1. Sờ nắn bụng

Để biết vị trí các phần của thai nhi, sờ nắn có vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán ngôi thế. Thai phụ nằm ngửa, hai chân chống để đùi sẽ tạo với mặt giường một góc 450, làm các cơ bụng chùng dễ nắn . Áp dụng bốn thủ thuật  Léopold, người khám đứng  phải sản phụ, nắn thứ tự từ thủ thuật 1, 2, 3; đến thủ thuật 4 xoay nhìn về phía chân của sản phụ.

         Thủ thuật thứ nhất: nắn cực trên (đáy tử cung) để biết  đáy tử cung là đầu hay là mông của thai. Nếu sờ được khối có chỗ rắn có chỗ mềm, không tròn, ít di động thì đó là mông. Nếu sờ được một khối rắn và chắc, tròn đều, dễ di động có dạng đá cục thì đó là đầu của thai nhi.

         Thủ thuật thứ hai: nắn nhẹ nhàng nhưng phải sâu hai bên bụng, để xác định xem bên nào là lưng, bên nào là chi của thai nhi. Nếu sờ được diện phẳng, rắn, đều thì đó là lưng; đối diện với lưng nắn thấy lổn nhổn là những khối to nhỏ khác nhau di động dễ, có khi ta nắn mạnh thấy phần thai nhi mất đi rồi hiện lại đó lại là tay chân của thai nhi.

         Thủ thuật thứ ba: Nắn cực dưới để biết có đầu hay mông,và  dựa vào các tính chất như nắn cực trên của tử cung. Nếu không sờ thấy gì ta cũng nói hạ vị rỗng và xác định đó là trường hợp ngôi ngang.

         Thủ thuật thứ bốn: Người khám sẽ xoay mặt về phía chân của sản phụ:

+ Dùng bàn tay ấn sâu xuống bờ trên xương vệ, khi ngôi còn cao thì bàn tay người khám ấn xuống dễhơn.

+ Dùng hai bàn tay ấn dọc hai bên ở cực dưới của tử cung. Khi đầu chưa lọt thì hai bàn tay có hướng hội tụ vào nhau, khi đầu đã lọt thì hai bàn tay hướng ra ngoài không thể chạm vào nhau được.

 

Thủ thuật 1                     Thủ thuật 2                  Thủ thuật 3                     Thủ thuật 4

Hinh 3. Khám 4 thủ thuật

 

2.2. Khám âm đạo

 

2.3. Nghe tim thai

 

2.4. Siêu âm

Một biện pháp an toàn, và chính xác, được sử dụng trong những trường hợp khó như sản phụ quá mập, thành bụng quá dày quá rắn chắc hay rau bám trước. Đôi khi cũng phải sử dụng đến X quang để xác định vị trí, tư thế hoặc hình thể của thai nhi; song từ  khi có siêu âm vai trò của X quang lại ngày càng ít .

BẢNG TÓM TẮT NGÔI THẾ KIỂU THẾ

 

NGÔI MỐC THẾ KIỂU THẾ–LỌT KIỂU THẾ SỔ
 

 

Chỏm

 

 

 

Xương Chẩm

Trái

 

 

Phải

Chẩm trái trước

Chẩm trái ngang

Chẩm trái sau

Chẩm phải trước

Chẩm phải ngang

Chẩm phải sau

Chẩm trước

 

 

Chẩm sau

 

 

Mông

Đỉnh xương cùng Trái

 

Phải

Cùng trái trước

Cùng trái sau

Cùng phải trước

Cùng phải sau

Cùng ngang trái

 

Cùng ngang phải

 

 

Mặt

Cằm Trái

 

 

Phải

Cằm trái trước

Cằm trái ngang

Cằm trái sau

Cằm phải trước

Cằm phải ngang

Cằm phải sau

 

 

Cằm trước

 

Trán Gốc mũi Trái

Phải

Không có Không có kiểu thế sổ
Ngang Mỏm vai Trái

Phải

Không có Không có kiểu thế sổ

 

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*