Viêm khớp dạng thấp(viết tắt VKDT) là 1 bệnh từ miễn không điều trị sớm dẫn tới tàn tật, ban đầu bệnh nhân bị 1 khớp rồi lan nhiều khớp, bệnh là mạn tính, nữ mắc nhiều hơn nam(tỷ lệ nam/nữ là 1/3).
Bệnh VKDT có thể chữa khỏi với điều kiện là phải phát hiện sớm, chính xác, điều trị đúng phác đồ và người bệnh cần kiên trì theo chu trình này.
Nguyên nhân và dấu hiệu của viêm khớp dạng thấp
Nước ta, có khoảng 0,55% dân số mắc bệnh viêm khớp dạng thấp, tỷ lệ từ 40-60 tuổi chiếm 70%. Đến nay khoa học vẫn xác định chính xác nguyên nhân Viêm Khớp Dạng Thấp, tuy vậy, cũng có nhiều giả thuyết cho rằng VKDT là bệnh từ miễn. Lý do họ đưa ra giả định này vì cho rằng các đáp ứng miễn dịch(bao gồm miễn dịch dịch thể và miễn dịch qua trung gian tế bào) của yếu tố cơ địa, lypho T, cytokin, yếu tố di truyền có vai trò quan trọng(ở 1 tỷ lệ nhất định nào đó mẹ truyền cho con cái)…
Do chưa tìm được nguyên nhân chắc chắn nên việc điều trị gặp không ít khó khăn. Bệnh VKDT mang tính chất mạn tính, sưng khớp, viêm bao hoạt dịch, đau khớp, dây chằng, hủy xương tại khớp một cách từ từ và phá hủy sụn khớp.
Bệnh nhân viêm khớp dạng thấp có nguy cơ tàn tật cao hơn người khác
Các khớp bị viêm sớm nhất thường hay gặp nhất là cổ tay, bàn tay rồi đến khớp bàn chân-ngón chân, khớp bàn-ngón chân, khớp bàn-ngón tay. Triệu chứng đầu hay gặp là sưng, đau kéo dài, đối xứng nhau (ví dụ đau nhức lâu dàu khớp cổ tay 2 bên).
Khi xét nghiệm kết quả cho thấy: CRP tăng cao, xuất hiện yếu tố dạng thấp RF, phim x-quang thấy biến đổi của xương (mất vôi, hình dải, xói mòn hay khuyết xương ở khớp bàn tay – ngón tay, bàn chân – ngón chân hoặc hẹp khe khớp hoặc dính khớp). Nhiều bệnh nhân có VKDT có xuất hiện dưới da.
Xét nghiệm CRP(C-reactive protein) dùng để xác định sự hiện diện của viêm và để theo dõi đáp ứng điều trị. Chỉ số này tăng cao sau nhồi máu cơ tim, phẫu thuật, đau, sốt, viêm. Cần thử CRP khi nghi ngờ có phản ứng viêm (đặc biệt các bệnh tự miễn, viêm loét đại tràng) hoặc kiểm tra nhiễm trùng.
Bệnh viêm khớp dạng thấp để lại di chứng như thế nào?
Thống kê cho thấy một số hậu quả của viêm khớp dạng thấp để lại: Biến dạng khớp viêm, co quắp các ngón tay, hạn chế vận động, teo cơ và có thể bị tàn phế.
Tỷ lệ người bệnh viêm khớp dạng thấp bị tàn phế từ 10-15%
Tuy nhiên nếu bạn bị chuẩn đoán VKDT bạn không nên lo lắng, biên chứng bệnh tùy thuộc vào mức độ bệnh, số lượng khớp bị viêm và nhiều yếu tố khác.
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy nếu số lượng khớp bị sưng và đau nhiều; thời gian mắc bệnh kéo dài trên một năm; các hình ảnh x-quang tổn thương xương thể hiện trên phim thấy rõ (xương bào mòn, hẹp khe khớp …); tốc độ máu lắng và chỉ số CRP tăng cao thì nguy cơ để lại di chứng là rất lớn.
Một số yếu tố khác có thể tăng tình trạng bệnh như người bệnh viêm khớp dạng thấp mắc kèm bệnh tim mạch, nhiễm khuẩn cấp tính.
Đặc biêt VKDT cần chuẩn đoán phân biệt một số bệnh có triệu chứng tương tự như đau nhức xương, viêm khớp vảy nến….
Bệnh viêm khớp dạng thấp cần điều trị sớm
Bệnh VKDT không chỉ là 1 bệnh ở khớp mà là 1 hệ thống. Bệnh mang tính chất mạn tính, kéo dài, để lại nhiều hậu quả xấu, có thể gây tàn phế. Viêm Khớp Dạng Thấp không phát hiện sớm có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch, loãng xương. Tuy vậy, Viêm Khớp Dạng Thấp chưa được xác định nguyên nhân một cách chắc chắn, do đó, khi nghi ngờ bị bệnh Viêm Khớp Dạng Thấp, cần phải đi khám ngay, tốt nhất là được khám bởi bác sĩ chuyên khoa xương khớp. Khi đã bị bệnh Viêm Khớp Dạng Thấp cần xác định điều trị sớm, tích cực, liên tục (khoảng 4 tháng).
Người bệnh không nên tự mua thuốc điều trị vì như vậy bệnh không những không khỏi mà đôi khi còn nặng hơn, nguy hiểm nhất là dùng thuốc không đúng chỉ định. Không được tiêm bất cứ loại thuốc gì vào vùng đau của khớp khi chưa có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa khớp.
Mọi bệnh nhân bị VKDT nên có chế độ sinh hoạt hợp lý và rèn luyện cơ thể đều đặn nhằm tránh biến dạng khớp, cứng khớp, teo cơ. Tập thể dục thường xuyên nhưng trong giai đoạn bệnh cấp tính thì cần nghỉ ngơi nhưng không có nghĩa là nghỉ hoàn toàn (tức là không làm các động tác căng cơ mạnh) như phải vận động nhẹ nhàng các khớp, căng nhẹ các cơ để hạn chế cứng khớp. Khi bệnh đã thuyên giảm thì nên đi bộ hoặc tập các động tác thể dục nhẹ nhàng, hợp với sức mình để tăng sức mạnh cho các cơ bắp.
Cần dinh dưỡng hợp lý như đa dạng nguồn dinh dưỡng, ăn nhiều rau, quả, cá, thịt trắng (thịt gà), giảm ăn ngọt. Một số thức ăn có giàu chất omega-3, các loại acid béo không no như mỡ cá, dầu cá giúp giảm đau, cứng khớp thì nên tận dụng. Hằng tháng, nên đi khám bệnh định kỳ để bác sĩ theo dõi tình trạng sức khỏe của bạn thuận lợi hơn, nếu thấy cần kết hợp điều trị giữa nội khoa, ngoại khoa hoặc lý liệu pháp thì bác sĩ sẽ tư vấn kịp thời cho người bệnh biết. VKDT là một trong những bệnh cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc, người bệnh và gia đình bệnh nhân thì hiệu quả điều trị sẽ được tăng lên.
Bài viết tổng hợp đầy đủ thông tin, dễ hiểu.